
Developing stages of a baby girl
Nhà giáo dục Ukraina – Suhomlinski từng nói: “Mỗi đứa trẻ là một cá thể đặc biệt và duy nhất!”. Vì vậy, để giúp con trẻ, đặc biệt là những bé gái trở thành một người độc lập, tự tin và nổi bật, ba mẹ cần quan tâm, thấu hiểu và hỗ trợ khi con cần.
Tâm lý bé gái vốn thường nhạy cảm, dễ tổn thương nên việc quan tâm con cũng phải khéo léo và tinh tế. Để quá trình này diễn ra hiệu quả, ba mẹ cần ghi nhớ 05 giai đoạn phát triển tâm - sinh lý của con như sau:
1. Giai đoạn 0 – 2 tuổi: Bé cần cảm giác an toàn
Trước khi chạm mốc 2 tuổi, bé còn phụ thuộc rất nhiều vào sự chăm sóc và yêu thương của ba mẹ. Lúc này trong mắt trẻ nhỏ, ba mẹ là cả thế giới, và thế giới chỉ xoay quanh gia đình nhỏ của bé. Đặc biệt là mẹ – người gắn bó với bé từng miếng ăn, giấc ngủ. Trong giai đoạn này, điều ba mẹ cần làm là giúp bé gái nhà mình cảm nhận được sự an toàn yêu thương.
9 tháng 10 ngày trong bụng, có một sự gắn kết vô cùng chặt chẽ và kỳ diệu giữa mẹ và bào thai. Vì thế ngay từ lúc chào đời, bé dễ dàng nhận ra và yêu thích giọng nói của mẹ. Chính giọng nói đó là thứ mang lại cho con cảm giác thoải mái, yên tâm. Vì vậy, kể cả lúc còn trong bụng mẹ và những năm đầu đời, mẹ hãy thường xuyên trò chuyện cùng con để con cảm nhận được sự yêu thương.
Nói tóm lại, ở giai đoạn đầu đời này, để mang lại cho bé cảm giác an toàn, ba mẹ hãy đáp ứng đủ cho bé những nhu cầu thiết yếu về thể chất như ăn uống, vận động; và nhu cầu về tình cảm như việc trao bé những cái ôm, những lần cùng nhau vui chơi, trò chuyện,…
2. Giai đoạn 2 – 5 tuổi: Bé cần khám phá chính mình và thế giới
Định kiến “con gái nhu mì, con trai hiếu động” đã là của xa xưa rồi, đừng để tư tưởng đó ảnh hưởng và làm hạn chế khả năng bộc lộ tư chất, tiềm năng thiên bẩm của con. Nói tóm lại, ở giai đoạn này, ba mẹ đừng gò bó con!
Hãy tạo điều kiện để con gái thoải mái, tự do làm những gì con thích. Từ vẽ tranh, may đồ cho búp bê, nhảy dây; thậm chí xây nhà, đá bóng hay lắp ráp siêu nhân… Đặc biệt, hãy tạo điều kiện cho con hòa mình vào thiên nhiên, dầm mưa dãi nắng, hái hoa bắt bướm,… Và đặc biệt đó chính là luôn sẵn sàng trả lời “10 vạn câu hỏi vì sao” của con.
Thông qua những việc đó, nhận thức của bé về thế giới xung quanh sẽ được mở rộng; khả năng tư duy và quan sát cũng được trau dồi; và các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
3. Giai đoạn 5 – 10 tuổi: Bé học cách kết bạn
Có câu nói thế này: “Một trong những hạnh phúc lớn nhất ở đời này là tình bạn”. Với mỗi người nói chung và bản thân các bé gái nói riêng, mối quan hệ bạn bè sẽ giúp trẻ rèn luyện và phát huy được nhiều kỹ năng xã hội, nhất là giao tiếp và ứng xử. Việc thiếu bạn bè sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với tâm lý và sự phát triển của bé.
Vậy nên ở giai đoạn thứ 3 này, ba mẹ hãy tạo điêu kiện để con tiếp xúc với các bạn đồng trang lứa; nếu có điều kiện thì tham gia cả các chương trình huấn luyện. Để qua đó, con phát triển được mỗi quan hệ xã hội; học được cách chia sẻ, cách cư xử nhã nhặn lịch sự; hiểu sâu hơn về lòng biết ơn cũng như cách nói cảm ơn, xin lỗi.
4. Giai đoạn 10 – 14 tuổi: Bé khám phá sở thích, tìm thấy giá trị bản thân và học cách bảo vệ chính mình
Ở giai đoạn từ 10 đến 14 tuổi, bé bắt đầu bước vô quá trình dậy thì. Chính vì vậy, ngoài những thay đổi lớn về tâm sinh lý, bé gái cũng chú trọng hơn đến hình ảnh cơ thể. Các con thường sẽ ngại ngùng và bỡ ngỡ trước sự biến đổi về ngoại hình cũng như các biểu hiện sinh lý tuổi mới lớn.
Thời điểm này, bên cạnh việc làm “mẹ”, mẹ cũng hãy hóa thân vào vai “một người bạn” để bên cạnh chia sẻ kiến thức cùng con. Hướng dẫn con cách bảo vệ bản thân, cách giữ gìn gìn cảm trong sáng, cách đối mặt với những rung động đầu đời, các vấn đề liên quan đến giới tính,… đó đều là những điều giúp kéo gần khoảng cách mẹ con và giúp bé tự tin đối mặt hơn với những sự đổi mới.
Bên cạnh đó, ba mẹ cần giúp con nhận ra những ưu điểm, sở thích của bản thân. Đặc biệt ở thời điểm khi những tiêu chuẩn về cái đẹp phù phiếm tràn lan trên mạng xã hội khiến các bé hoang mang, thì điều ba mẹ cần làm đó chính là gìn giữ sự tự tin của con bằng cách đề cao những vẻ đẹp bên trong cho con hiểu.
5. Giai đoạn 14 – 18 tuổi: Bé đón nhận sự tự do và trách nhiệm như một người trưởng thành
Thời điểm này, ba mẹ sẽ tập làm quen với việc con gái bé bỏng của mình tập trung sự chú ý vào một chàng trai khác, thậm chí còn có những buổi hẹn hò đầu tiên. Thay vì can thiệp vào cuộc sống của con và phản ứng gay gắt, ba mẹ hãy cho con không gian riêng.
Đừng bí mật đọc tin nhắn, nhật ký; đừng xét nét các mỗi quan hệ cá nhân của con! Hãy trao cho con quyền tự quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân con. Chắc chắn khi đó vấp ngã hay sai lầm là điều không thể tránh khỏi nhưng bù lại những cái đó sẽ giúp con trưởng thành và học cách tự chịu trách nhiệm như một người lớn.
Nguồn bài viết: Sưu tầm

Nghệ thuật động viên con cái của người Nhật
Sau đây là một số nghệ thuật động viên khích lệ con cái trong cách nuôi dạy con kiểu Nhật giúp bé phát triển tốt hơn:
Thời kì lặp đi lặp lại ta dạy trẻ những gì thì hãy quan sát để xem trẻ có hứng thú với cái gì, hình khối, hội họa, âm nhạc, sách truyện, …để từ đó chuyển qua giai đoạn tạo hứng thú cho trẻ.
Khi trẻ đang tập trung hay có hứng thú làm gì thì nên hạn chế ngắt giữa chừng mà cứ để trẻ làm
Để tạo hứng thú cho trẻ thì nên khen trẻ hơn là chê, vì nếu ba mẹ chê việc gì trẻ làm thì tự nhiên trẻ sẽ không có tự tin để làm cái đó nữa.
Khi khen trẻ thì nên khen là tốt, con đã cố gắng, con giỏi và thể hiện sự hài lòng, vui mừng của mình hơn là việc đánh giá việc trẻ làm là đẹp hay xấu. Nghĩa là chú ý đến quá trình trẻ cố gắng hơn là kết quả mà trẻ đã làm được tốt hay xấu.
Tránh dùng những từ ra lệnh với trẻ ví dụ mẹ cấm con…, hãy ăn cơm đi, hãy tắm đi, hãy thu dọn đồ chơi vào… mà thay bằng những từ như sao con không… nếu con làm… thì mẹ sẽ rất vui…
Nếu trẻ không ăn thì hãy nghĩ cách cải thiện món ăn để phù hợp với trẻ thay vì ép trẻ ăn đến phát khóc. Đây là một trong những sai lầm phổ biến khi nuôi con của mẹ Việt.
Cha mẹ cùng học với con cái là cách tốt nhất giúp con học hiệu quả. Ví dụ khi cho trẻ xem ti vi thì nên ngồi bên cạnh coi cùng trẻ rồi giải thích cho trẻ thay vì để trẻ ngồi coi ti vi một mình, cùng đọc truyện, cùng chơi…
Khi để trẻ trong trạng thái đói sẽ là điều kiện kích thích khả năng thích ứng của trẻ.
Không phải lúc nào cũng đáp ứng mọi đòi hỏi của trẻ, mà hãy đẻ trẻ trải qua cảm giác không có được điều mình muốn. Và đừng bao giờ đánh mất quyền và uy nghiêm của một người mẹ đó là con cái phải biết vâng lời và sợ lời mẹ nói. Nếu ta quá nuông chiều và cung phụng trẻ thì uy quyền của người mẹ sẽ không còn, con cái sẽ không còn sợ lời mẹ nói nữa.
Khi trẻ hỏi vì sao thì không nên giả vờ bỏ qua mà hãy trả lời. Nếu ta không biết câu trả lời thì hãy thành thực với trẻ và trả lời là để cha mẹ sẽ tìm hiểu sau. Không nhất thiết phải giải đáp cặn kẽ, hãy để câu trả lời sẽ là một kích thích để trẻ muốn tìm hiểu sâu hơn.
Học và chơi kết hợp song song chứ không nhất thiết phải phân biệt rõ ràng 2 công việc này.
Đối với những khái niệm trừu tượng thì hãy lấy hình ảnh hay tự mình làm ví dụ để minh họa.
Hãy chọn những đồ chơi kích thích khả năng sáng tạo của trẻ thì trẻ sẽ không bị mau chán. Ví dụ như chơi ghép hình, lấy cây gỗ để xếp nhà, nặn đất sét, vẽ tranh….
Đối với hứng thú của trẻ thì không nên đánh giá cái nào là tốt hơn. Cái nào trẻ tỏ ra có hứng thú ta cũng đều nên ủng hộ hết. Nó sẽ giúp trẻ tự tin, đồng thời đó là cách giúp cha mẹ tìm ra được năng khiếu đặc biệt ở trẻ để có thể giúp trẻ phát huy tối đa khả năng đó.
Khi dạy nói cho trẻ thì không nên phân biệt ngôn ngữ trẻ con với ngôn ngữ người lớn, hãy dạy tiếng chuẩn, ngôn ngữ người lớn luôn cho trẻ để sau này không mất công đoạn trẻ chuyển từ ngôn ngữ trẻ con sang ngôn ngữ chuẩn. Ví dụ dạy là “con chó” tốt hơn là dạy từ “con cún”.
Đừng bao giờ so sánh trẻ với đứa trẻ khác vì như thế sẽ làm chúng mất tự tin, nhút nhát và không muốn cố gắng. Khi có hai anh em (chị em) thì cũng không nên so sánh hai anh em với nhau sẽ làm chúng trở nên không yêu thương nhau.
Trong học tập thì hãy ưu tiên dành thời gian dạy đứa lớn thì sẽ hiệu quả hơn. Khi đang chỉ bài cho đứa lớn mà đứa em cũng sà vào muốn làm theo thì hãy khuyến khích đứa em, hãy để đứa em học cùng anh. Hãy chuẩn bị hai bộ dụng cụ giấy bút để đứa em cũng có thể tham gia học hành hay chơi cùng. Đó là phương pháp rất hiệu quả để kích thích tinh thần ham học của đứa em. Hãy để hai anh em cùng chơi với nhau.
Khi hai anh em tranh giành đồ chơi thì hãy công bằng với cả hai. Nếu đứa em muốn có đồ chơi là đồ chơi của anh thì hãy nói đứa em xin phép anh để chơi, không nên can thiệp bảo anh hãy nhường cho em.
Đừng mua quá nhiều đồ chơi cho trẻ vì nó sẽ làm trẻ chóng chán và giảm hứng thú học hành.

Come to Joy and have fun
Advertisement of Joy Play School
To see more detail, please click on: https://bit.ly/Esearch-JoyPlaySchool
or view reality video about school at: https://bit.ly/JoyPlaySchoolEsearchreview

6 Steps To Resolve The Child's Conflict
Bước 1: Phương pháp tiếp cận bình tĩnh
Dừng lại bất kỳ những hành động hoặc ngôn ngữ gây tổn thương. Một cách thật bình tĩnh trấn an trẻ rằng mọi việc đã được kiểm soát và tạo ra sự hài lòng tạm thời giữa tất cả mọi người.
Bước 2: Thừa nhận cảm xúc của trẻ
Để trẻ thể hiện cảm xúc của mình. Sau đó, khuyến khích trẻ đưa ra suy nghĩ và cách giải quyết vấn đề.
Bước 3: Thu thập thông tin
Giáo viên thật cẩn thận khi đưa ra các câu hỏi mà không khiến 2 bên bị kích động. Khuyến khích đặt các câu hỏi mở để trẻ mô tả lại quá trình xảy ra xung đột và những lỗi mà trẻ mắc phải.
Bước 4: Nhắc lại vấn đề
Giáo viên sử dụng các thông tin được cung cấp bởi trẻ, nhắc lại vấn đề. Sử dụng các thuật ngữ rõ ràng và đơn giản. Tránh những lời nói gây tổn thương.
Bước 5: Xin ý tưởng giải quyết vấn đề từ 2 phía
Giáo viên khuyến khích trẻ đưa ra ý tưởng dựa trên điều kiện thực tế cụ thể. Sau đó lựa chọn một giải pháp mà cả 2 bên đều chấp thuận. Cần tôn trọng cách giải quyết của trẻ chứ không áp đặt cách giải quyết của mình lên trẻ. Do đó trẻ cảm thấy được hài lòng trong quá trình giải quyết vấn đề.
Bước 6: Cung cấp quá trình theo dõi khi cần thiết
Giáo viên giúp trẻ thực hiện các giải pháp của trẻ. Và chắc chắn rằng không còn sự khó chịu của bất cứ bên nào. Nếu cần thiết, giáo viên có thể lặp lại 1 hoặc nhiều bước trên cho đến khi trẻ hòa đồng trở lại.
(Nguồn: Tổng hợp)

HighScope Educational Method
Được nghiên cứu bởi Quỹ nghiên cứu giáo dục - một tổ chức phi lợi nhuận độc lập, được thành lập vào năm 1970 với trụ sở chính tại Ypsilanti, Michigan, Hoa Kỳ, phương pháp giáo dục HighScope đến nay đã trở thành một trong 4 mô hình giáo dục mầm non nổi tiếng nhất thế giới. Được sử dụng rộng rãi ở các trường mầm non quốc tế.
Phương pháp giáo dục HighScope nhấn mạnh vào “cá nhân học tập chủ động”. Có nghĩa là trẻ tiếp thu tốt nhất khi được chủ động tham gia vào quá trình học tập. Được chủ động lựa chọn và làm theo kế hoạch của chính bản thân mình. Trẻ khám phá thế giới xung quanh dựa trên những trải nghiệm của trẻ với những người xung quanh, với các sự vật, các sự kiện, hiện tượng và các ý tưởng của trẻ.
Phương pháp High Scope đặt lợi ích và sự lựa chọn của trẻ làm trung tâm. Trẻ xây dựng kiến thức của mình thông qua tương tác với thế giới và những người xung quanh trẻ. Trẻ có thể tự thực hiện những hoạt động của chính trẻ và người lớn chỉ giữ vai trò xác nhận những kiến thức trẻ đã biết và hỗ trợ trẻ mở rộng tư duy đến cấp độ tiếp theo.
Các giáo viên, người chăm sóc trẻ và cha mẹ cung cấp cho trẻ sự hỗ trợ về tình cảm, vật chất và kiến thức. Trong quá trình học tập chủ động, người lớn gợi mở tư duy của trẻ thông qua những tương tác đa dạng về vật liệu và sự chăm sóc.
Mục tiêu của phương pháp giáo dục High Scope
Phương pháp giáo dục HighScope giúp trẻ em phát triển trong mọi lĩnh vực. Mục tiêu của HighScope là
-Trẻ tìm hiểu kiến thức thông qua sự tham gia tích cực hoạt động với người, vật liệu, sự kiện và ý tưởng.
-Trẻ độc lập, tự tin và có trách nhiệm. Trẻ sẵn sàng cho các cấp học mới và sẵn sàng cho cuộc sống.
-Trẻ tự tìm hiểu và lên kế hoạch cho các hoạt động của mình, đưa chúng ra và nói với mọi người về những gì trẻ đã làm được, đã học được.
-Trẻ đạt được các kiến thức, kỹ năng quan trọng trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Vai trò của người lớn trong HighScope
Trong phương pháp HighScope các giáo viên, người chăm sóc trẻ và cha mẹ tương tác với trẻ em bằng cách chia sẻ quyền kiểm soát với trẻ em. Hình thành mối quan hệ thân thiện với trẻ. Hỗ trợ ý tưởng của trẻ và giúp trẻ giải quyết xung đột cá nhân.
Các giáo viên, người chăm sóc trẻ và cha mẹ tham gia như các đối tác trong hoạt động của trẻ chứ không phải là người quản lý, giám sát. Cần phải tôn trọng sự lựa chọn của trẻ, khuyến khích trẻ chủ động, tự lập và sáng tạo. Các giáo viên, người chăm sóc trẻ và cha mẹ cần cung cấp tài liệu, kinh nghiệm để trẻ tự học tập và phát triển.
Hoạt động một ngày của trẻ với HighScope
Phương pháp High Scope có một trình tự học trong ngày nhất định. Điều này tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn nội dung, theo đuổi sở thích và được phát triển khả năng của mình trong từng lĩnh vực.
Quy trình “lên kế hoạch – thực hiện – đánh giá”. Chuỗi 3 phần này là cách thức tiếp cận của chương trình HighScope. Nó bao gồm:
-Hoạt động tự chọn theo nhóm nhỏ
Giáo viên giới thiệu với trẻ về những học cụ, ý tưởng, hoạt động mới… Sau đó, trẻ sẽ tự lựa chọn hoạt động và lên kế hoạch như: chọn bạn để cùng hoạt động; chọn nguyên liệu sử dụng; chọn nơi để ngồi; chọn cách thức thể hiện… Sau đó là khoảng thời gian trẻ dành để nhắc lại những gì đã làm và học được với cô giáo, các bạn. Cuối cùng là khoảng thời gian để thu dọn, cất giữ sản phẩm mà trẻ đã hoàn thành và chưa hoàn thành.
Các trải nghiệm trong hoạt động tự chọn theo nhóm nhỏ mang lại rất nhiều lợi ích cho trẻ. Giúp trẻ tự nhận ra những sở thích của bản thân. Học được cách giao tiếp trong xã hội, trình bày ý tưởng của mình. Biết giải quyết vấn đề khi có mâu thuẫn nảy sinh. Biết lắng nghe để hiểu quan điểm của người khác.
-Hoạt động theo nhóm lớn
Là làm việc theo một nhóm lớn tạo ý thức cộng đồng cho trẻ. Giáo viên và trẻ cùng tham gia các hoạt động âm nhạc, kể chuyện, chia sẻ về các trải nghiệm của bản thân… Ở hoạt động này trẻ có nhiều cơ hội để được lựa chọn đóng vai trò làm người lãnh đạo.
-Hoạt động ngoài trời
Hàng ngày trẻ nên được dành 30 phút để chơi ngoài trời. Tham gia các hoạt động vui chơi sôi nổi ngoài sân và tận hưởng không khí trong lành. Trẻ được thoải mái, tự do vui chơi, tham gia vào các hoạt động vận động: chạy, nhảy, leo trèo, đuổi bắt,… Hoặc khám phá những điều kỳ diệu từ thiên nhiên cây cỏ, chim chóc, côn trùng,…

Understanding STEM and STEM Education (Part 2)
Giáo dục STEM ở Mỹ
Tại Mỹ, giáo dục STEM khá đa dạng và được dạy theo chủ đề, không chỉ có hoạt động dạy làm robot. Trẻ em bậc mẫu giáo, tiểu học cũng đã được học các chương trình tích hợp STEM. Ví dụ, thông qua trò chơi làm mô hình núi lửa, bóng bay, chong chóng quay, tuy đơn giản nhưng có sự kết nối các nhóm kiến thức với nhau, có hệ thống mục tiêu giáo dục rõ ràng.
Mục đích chính của các chương trình giáo dục STEM là truyền cảm hứng trong học tập, thấy được mối liên hệ giữa các kiến thức, nhận thức được ảnh hưởng của các kiến thức STEM đối với thế giới và sự phát triển của xã hội tương lai. Ngoài ra, kỹ năng thực hành khoa học và kỹ thuật cũng góp phần quan trọng trong việc vận dụng kiến thức được học để giải quyết vấn đề và tạo ra sản phẩm.
Mặc dù khái niệm trên đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong giáo dục STEM nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa rõ như: Thế nào là cách tiếp cận liên ngành trong một chương trình học; dạy về công nghệ như thế nào?
Tổ chức Hiệp hội Nghiên cứu giáo dục khoa học Mỹ (NARST) năm 2012 đã đưa ra các thuật ngữ chi tiết hơn như “STEM Integration” (tích hợp STEM), “Integrated STEM education” (giáo dục STEM tích hợp), “STEM-focused curriculum” (chương trình học tập trung về STEM). Các thuật ngữ này nhấn mạnh tầm quan trọng của tiêu chuẩn giáo dục khoa học thế hệ mới (NGSS) – thước đo và cũng là mục tiêu của các chương trình giáo dục STEM tiên tiến tại Mỹ.
Như vậy, giáo dục STEM ở Mỹ chính là một cách thể hiện ở cấp độ chương trình học giúp đáp ứng bộ tiêu chuẩn NGSS. Ví dụ: Để giải quyết bài tập làm một chiếc cầu bằng gỗ thay cho chiếc cầu đã hỏng tại địa phương, giáo viên lồng ghép kiến thức về vật lý (như trọng lực, trọng tâm), toán (kiến thức hình học), sử dụng các công cụ (như kéo, búa, máy tính) để thiết kế và lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Học sinh phải vận dụng các kỹ năng thực hành và tư duy liên ngành.
Ở Mỹ, giáo dục tích hợp STEM không phải để đào tạo học sinh theo chuyên ngành hẹp mà hướng đến chất lượng nhận thức và hiểu biết trong lĩnh vực này, gọi là STEM literacy (năng lực STEM). Lý do là xu hướng phát triển của xã hội trong tương lai buộc mọi người có hiểu biết liên ngành, nhận thấy khoa học và công nghệ ngày càng ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống, ý thức được sự cạnh tranh trong nền kinh tế mới dựa vào sức mạnh của các lĩnh vực STEM.
Như vậy, khi nói về thuật ngữ STEM, chúng ta phải thận trọng trong cách dùng từ. Nếu áp dụng một chương trình dạy học vận dụng các kiến thức đa dạng trong 4 lĩnh vực của STEM, nên dùng thuật ngữ “giáo dục tích hợp STEM” hoặc “giáo dục liên môn STEM” thay vì chỉ nói chung chung là “giáo dục STEM” để thấy được giá trị cốt lõi của chương trình đó là sự kết nối các kiến thức và môn học. Còn nếu chương trình học chỉ là ghép 4 môn trên, không có kết nối và hỗ trợ nhau, không có mục tiêu và tiêu chuẩn rõ ràng thì chỉ nên gọi là “chương trình học các môn STEM”.
Để có một chương trình giáo dục tích hợp STEM chất lượng cao, đầu tiên phải xây dựng một nền móng vững chắc về giáo dục khoa học, dựa vào bộ tiêu chuẩn khoa học NGSS, tránh trường hợp cắt ghép một cách cơ học ở các môn, tổ chức rời rạc, thiếu tính hệ thống, không giúp học sinh phát triển nhận thức và kỹ năng liên ngành. Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm và khám phá các kiến thức khoa học từ những điều gần gũi, thấy được sức mạnh của khoa học đối với đời sống và yêu quý thế giới tự nhiên. Giáo dục STEM thật sự không phải để biến học sinh thành nhà khoa học, kỹ sư mà là chuẩn bị cho công dân toàn cầu thế hệ mới.
Tác giả Nguyễn Thành Hải là đồng sáng lập hệ thống Thư viện trẻ sáng tạo (Library for Creative Kids) tại Mỹ – một dự án giáo dục cộng đồng giúp đưa các ý tưởng giáo dục sáng tạo, dụng cụ học tập, sách, truyện tiếng Anh từ Mỹ về cho các thư viện, trường học tại Việt Nam hoàn toàn miễn phí. Ông cũng là thành viên thường trực của NSTA và NARST.
(Nguồn: Khoa học và Phát triển)